Bản án sơ thẩm số 23/2024/NHGĐ-ST của TAND quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng tuyên phần tài sản chung chia 70% cho người chồng, 30% cho người vợ. Cả hai đều kháng cáo, trong đó người chồng kháng cáo đề nghị chia tỷ lệ 80% - 20%.
Vụ án “Ly hôn nuôi con, chia tài sản chung, nợ chung” giữa nguyên đơn trong vụ án là bà Nguyễn Thị H. T. (SN 1985), bị đơn là ông Lê Phước H. B. (SN 1985 cùng trú tại Đà Nẵng) khiến dư luận đặc biệt quan tâm bởi từ vụ án ly hôn này đã “lộ” ra hàng loạt bất động sản khủng.
Cụ thể, bà T. đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn vì vợ chồng đã có quá nhiều mâu thuẫn không thể giải quyết. Bà T. có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu cầu ông B. cấp dưỡng. Về tài sản chung, bà T. yêu cầu chia theo tỷ lệ bà T. được hưởng 50%, ông B. hưởng 50%.
Bà T. khai trong thời kỳ hôn nhân, hai vợ chồng có tổng 9 tài sản chung, tạm tính tổng giá trị hơn 118 tỷ đồng. Trong khi đó ông B. thống nhất tài sản chung của hai vợ chồng gồm 7 tài sản với tổng giá trị hơn 44 tỷ đồng. Riêng 2 lô đất trên đường 2/9, có giá trị 74 tỷ đồng là tài sản riêng của ông. Ông B. yêu cầu chia theo tỷ lệ ông B. hưởng 80% bà T. được hưởng 20%.
Bản án sơ thẩm số 23/2024/NHGĐ-ST của TAND quận Cẩm Lệ tuyên công nhận sự thuận tình ly hôn giữa bà T. và ông B. Giao người con lớn cho bà T. nuôi và người con nhỏ do ông B. nuôi. Hai ông bà không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con cho bên nào, các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chung theo quy định của pháp luật.
Về phần phân chia tài sản chung và nợ chung, cấp sơ thẩm xác định tổng giá trị tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là 44,3 tỷ đồng. Nợ chung trong thời kỳ hôn nhân là hơn 18 tỷ đồng. Tổng giá trị tài sản chung sau khi khấu trừ nghĩa vụ trả nợ của hai vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là hơn 26 tỷ đồng.
Chia giá trị tài sản chung sau khi đã khấu nợ khoản nợ chung theo tỷ lệ bà T. được hưởng 30%, hơn 7,8 tỷ đồng và ông B. được hưởng 70%, hơn 18 tỷ đồng.
Sau khi tuyên án, cả bà T. và ông B. đều có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm. Trong đó, bà T. kháng cáo về phần con chung và tài sản. Bà yêu cầu được nuôi dưỡng hai con chung. Về phần tài sản chung, bà yêu cầu chia đôi tất cả các tài sản đang tranh chấp sau khi khấu trừ các khoản nợ chung.
Cụ thể, cho bà được tiếp tục sở hữu Công ty M.Đ. và nhà ở trên đường Nguyễn Hữu Thọ. Ông B. được quyền sở hữu 7 bất động sản còn lại, phần chênh lệch sau khi khấu trừ các khoản nợ chung thì ông B. sẽ thanh toán tiền mặt cho bà T.
Ngoài ra, bà còn đề nghị bác bỏ đơn yêu cầu phản tố của ông B. về việc công nhận 2 lô đất tại khu dân cư 2/9 là tài sản riêng của ông B.
Ông B. kháng cáo về phần tài sản chung và yêu cầu cấp phúc thẩm giải quyết chấp nhận cho ông được hưởng 80% giá trị phần tài sản chung mà cấp sơ thẩm đã xác định.
Theo bà T., với bản án sơ thẩm này thì bà không chỉ “ra đi” tay trắng mà còn gánh khoản nợ gần 3 tỷ đồng. Tài sản của bà và ông B. trong thời gian chung sống là do cả hai kinh doanh, gây dựng mà có được. Bà T. luôn xác nhận và biết ơn sự hỗ trợ tài chính từ ba mẹ ông B. nhưng bà cũng khẳng định việc hỗ trợ đó có giới hạn, không phải toàn bộ.
Sở dĩ vụ ly hôn của bà T. và ông B. khiến nhiều người quan tâm là bởi tài sản trong thời kỳ hôn nhân của hai người được kê khai tại Tòa gồm 9 tài sản. Đặc biệt trong đó có 8 bất động sản với giá trị hơn 118 tỷ đồng là những lô đất vàng tại TP. Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam.
Được biết, vụ án “Ly hôn nuôi con, chia tài sản chung, nợ chung” giữa nguyên đơn trong vụ án là bà Nguyễn Thị H. T. (SN 1985), bị đơn là ông Lê Phước H. B. (SN 1985 cùng trú tại Đà Nẵng) sẽ được TAND TP. Đà Nẵng đưa ra xét xử phúc thẩm vào ngày 28/8/2024.