Việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của người dân khi Nhà nước thu hồi đất phải đảm bảo các nguyên tắc theo quy định của Luật Đất đai 2024.
Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là một trong những vấn đề quan trọng trong quản lý nhà nước về đất đai, có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất có đất bị thu hồi.
Tại Chương 7 quy định về việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và Nghị định 88 cụ thể hóa các quy định về bồi thường hỗ trợ tái định cư có hiệu lực thi hành từ 01/8/2024 nêu rõ: Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất của diện tích đất thu hồi cho người có đất thu hồi.
Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là chính sách của Nhà nước nhằm trợ giúp cho người có đất thu hồi, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển ngoài các khoản đã bồi thường.
Tái định cư là việc Nhà nước thực hiện bồi thường bằng đất ở hoặc bằng nhà ở tại khu tái định cư hoặc địa điểm khác phù hợp cho người có đất thu hồi hoặc hỗ trợ bằng giao đất ở, nhà ở tái định cư cho người không đủ điều kiện bồi thường về đất ở nhưng không còn chỗ ở nào khác.
Chuyên gia pháp lý về đất đai Nguyễn Đỉnh cho biết: Nguyên tắc xuyên suốt của Luật Đất đai lần này là nguyên tắc về giá đất, phản ánh tính thị trường, chính vì thế hoạt động bồi thường của Nhà nước bảo đảm tính thị trường, bảo đảm công bằng cho người dân. Tiếp theo là vấn đề tái định cư, trước đây có bất cập, đó là khi nhà nước thu hồi đất, nhiều nơi người dân chưa được bố trí tái định cư, có khi 2-3 năm sau, nhà nước mới trả cho người dân món nợ tái định cư nên đời sống của họ trong 2-3 năm đó rất khó khăn. Khi người dân được bố trí tái định cư, thời điểm đó có thể giá đất tăng, người dân phải trả rất nhiều tiền để nhận tái định cư. Đôi khi số tiền họ nhận được khi bồi thường lại không đủ để mua 1 suất tái định cư, đó là sự bất cập. Nhưng trong luật lần này thì khác, khi nhà nước thu hồi đất thì phải phê duyệt phương án tái định cư, phê duyệt theo bảng giá đất.
Cùng với đó, việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, minh bạch, kịp thời và đúng quy định của pháp luật; vì lợi ích chung, sự phát triển bền vững, văn minh và hiện đại của cộng đồng, của địa phương; quan tâm đến đối tượng chính sách xã hội, đối tượng trực tiếp sản xuất nông nghiệp.
Nghị định số 88/2024/NĐ-CP quy định việc bồi thường bằng đất có mục đích sử dụng khác với loại đất thu hồi hoặc bằng nhà ở khi Nhà nước thu hồi đất quy định tại khoản 1 Điều 96, khoản 1 Điều 98, khoản 1 Điều 99 của Luật Đất đai.
Giá đất tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất khi bồi thường bằng đất có mục đích sử dụng khác với loại đất thu hồi cho tổ chức kinh tế có đất ở thu hồi là giá đất cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định tại thời điểm phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Người có đất thu hồi được bồi thường bằng đất có mục đích sử dụng khác với loại đất thu hồi hoặc bằng nhà ở mà có chênh lệch giá trị giữa tiền bồi thường, hỗ trợ về đất với tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp khi được giao đất, thuê đất khác hoặc tiền mua nhà ở thì xử lý như sau:
Trường hợp tiền bồi thường, hỗ trợ về đất lớn hơn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp khi được giao đất, thuê đất có mục đích sử dụng khác với loại đất thu hồi hoặc tiền mua nhà ở thì người có đất thu hồi được nhận phần chênh lệch;
Trường hợp tiền bồi thường, hỗ trợ về đất nhỏ hơn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp khi được giao đất, thuê đất có mục đích sử dụng khác với loại đất thu hồi hoặc tiền mua nhà ở thì người có đất thu hồi phải nộp phần chênh lệch.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ quỹ đất, quỹ nhà và tình hình thực tế tại địa phương quy định tỷ lệ quy đổi, điều kiện bồi thường bằng đất có mục đích sử dụng khác với loại đất thu hồi hoặc bằng nhà ở để bồi thường cho người có đất bị thu hồi theo quy định.