Trong giai đoạn đầu 2025-2026, việc phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính sẽ được ưu tiên cho 3 lĩnh vực phát thải lớn gồm: Nhiệt điện, sắt thép và xi măng.
3 lĩnh vực phát thải lớn được đề xuất
Cụ thể, trong giai đoạn đầu 2025 – 2026, việc phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính được thực hiện đối với các cơ sở có mức phát thải lớn thuộc 3 lĩnh vực: Nhiệt điện, sản xuất sắt thép, sản xuất xi măng. Dự kiến có khoảng 200 cơ sở được phân bổ hạn ngạch trong giai đoạn đầu, chiếm khoảng 45% tổng phát thải của các cơ sở phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính.
Đây là đề xuất của Bộ Tài nguyên và Môi trường tại dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 07/01/2022 của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn (sau đây gọi là Nghị định 06).
Theo quy định tại khoản 4 Điều 7 và khoản 2 Điều 12 Nghị định 06, các cơ sở thuộc danh mục phải kiểm kê phát thải khí nhà kính do Thủ tướng Chính phủ ban hành sẽ được phân bổ hạn ngạch phát thải cho giai đoạn 2026-2030. Tuy nhiên, hiện nay, một số cơ sở vẫn chưa cung cấp số liệu chi tiết để có căn cứ phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính.
Kinh nghiệm của các quốc gia đã vận hành thị trường các-bon cho thấy, trong giai đoạn đầu, Chính phủ chỉ phân bổ hạn ngạch cho những lĩnh vực phát thải lớn. Ngoài ra, EU đã bắt đầu áp dụng Cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon (CBAM) nhằm kiểm soát phát thải khí nhà kính và áp dụng mức thuế các-bon đối với các mặt hàng nhập khẩu vào EU gồm: sắt thép, nhôm, xi măng, điện, hydro, phân bón. Hoa Kỳ cũng có kế hoạch áp dụng cơ chế CBAM đối với 8 mặt hàng có liên quan đến xuất khẩu của Việt Nam.
Đồng thời, các cơ sở có trách nhiệm nộp báo cáo kiểm kê khí nhà kính định kỳ hai năm một lần. Kết quả kiểm kê khí nhà kính là cơ sở để vận hành thị trường trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính. Vì vậy, thời điểm phân bổ hạn ngạch cần theo lộ trình phù hợp với thời điểm các cơ sở nộp báo cáo kiểm kê khí nhà kính.
Theo quy định hiện hành, Bộ Tài nguyên và Môi trường được giao chủ trì, phối hợp với các Bộ quản lý lĩnh vực liên quan xây dựng, ban hành định mức phát thải khí nhà kính trên đơn vị sản phẩm đối với các loại hình cơ sở sản xuất, kinh doanh, nhằm xác định hạn ngạch để phân bổ cho các cơ sở dựa trên cường độ phát thải trên đơn vị sản phẩm.
Ông Tăng Thế Cường – Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết: Kinh nghiệm của các nước như Hàn Quốc cho thấy, việc xác định hạn ngạch dựa trên cường độ phát thải trên đơn vị sản phẩm là rất khó khăn và đã thay đổi việc xác định hạn ngạch phát thải dựa trên lịch sử phát thải của 3 năm gần nhất.
'‘ Giai đoạn đầu, các quốc gia phân bổ hạn ngạch dựa trên lịch sử phát thải KNK của các cơ sở và tiến tới áp dụng định mức phát thải đối với các lĩnh vực khi có đầy đủ thông tin, dữ liệu liên quan đến xác định định mức .’'- ông Cường cho hay.
Cũng theo ông Tăng Thế Cường, liên quan đến trách nhiệm phân bổ hạn ngạch, các Bộ quản lý lĩnh vực hiện được quy định có trách nhiệm tổ chức thực hiện kế hoạch giảm nhẹ phát thải KNK cấp lĩnh vực; ban hành quy định kỹ thuật về kiểm kê KNK, MRV giảm nhẹ phát thải khí nhà kính cấp cơ sở và tổ chức kiểm tra việc tuân thủ các quy định trong phạm vi lĩnh vực quản lý.
‘' Do đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề xuất sửa đổi theo hướng giao trách nhiệm cho các Bộ quản lý lĩnh vực tổng hợp, đề xuất danh mục cơ sở và lượng hạn ngạch được phân bổ hằng năm cho từng cơ sở gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường tổng hợp, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tổng hạn ngạch phát thải khí nhà kính, lượng hạn ngạch dự trữ. Căn cứ tổng hạn ngạch phát thải khí nhà kính được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì phối hợp với các Bộ liên quan phân bổ hạn ngạch cho các cơ sở .’'- ông Cường khẳng định.
Cho phép trao đổi hạn ngạch phát thải KNK và tín chỉ các-bon
Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung đã sửa đổi Điều 12 theo hướng phân kỳ thực hiện. Cụ thể, giai đoạn 2025 – 2026, đối tượng được phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính là các nhà máy nhiệt điện, cơ sở sản xuất sắt thép, cơ sở sản xuất xi măng.
Bộ Công Thương đề xuất lượng hạn ngạch phân bổ hằng năm cho từng nhà máy nhiệt điện, cơ sở sản xuất sắt thép.
Bộ Xây dựng đề xuất lượng hạn ngạch phân bổ hằng năm cho từng cơ sở sản xuất xi măng, gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường trước ngày 31/10/2024.
Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan rà soát, đánh giá, tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt tổng hạn ngạch phát thải khí nhà kính kèm theo danh mục cơ sở dự kiến được phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính trước ngày 30/11 năm 2024.
Căn cứ tổng hạn ngạch phát thải khí nhà kính được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ Tài nguyên và Môi trường phân bổ hạn ngạch cho các cơ sở trước ngày 31/12/2024.
Tương tự trong giai đoạn 2027 - 2028 và giai đoạn 2029 – 2030, các bộ quản lý lĩnh vực đề xuất danh mục cơ sở được phân bổ hạn ngạch căn cứ vào danh mục cơ sở phải kiểm kê khí nhà kính, và lượng hạn ngạch phân bổ hằng năm cho từng cơ sở, gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Căn cứ tổng hạn ngạch phát thải khí nhà kính được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ Tài nguyên và Môi trường phân bổ hạn ngạch cho các cơ sở trước ngày 31/12/2026 cho giai đoạn 2027 - 2028 và trước ngày 31/12/2028 cho giai đoạn 2029 - 2030.
Bộ Tài nguyên và Môi trường thu hồi hạn ngạch phát thải khí nhà kính của các cơ sở đã giải thể hoặc phá sản và thực hiện hủy bỏ trên Hệ thống đăng ký quốc gia.
Phương pháp tính toán hạn ngạch phát thải khí nhà kính được ban hành kèm theo Nghị định này và áp dụng thống nhất cho các cơ sở thuộc cùng một lĩnh vực trong một giai đoạn.
Bộ quản lý lĩnh vực lựa chọn áp dụng phương pháp tính toán hạn ngạch phát thải khí nhà kính để xác định hạn ngạch phân bổ cho các cơ sở và công khai trên cổng thông tin điện tử của bộ quản lý lĩnh vực trước ngày 31/10 của năm thực hiện phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính theo giai đoạn.
Cơ sở được phân bổ hạn ngạch được phép trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ các-bon trên Sàn giao dịch các-bon theo lộ trình quy định tại Điều 17 Nghị định này.