Tiền giả là gì? Giao nộp tiền giả ở đâu?
Xin cho tôi hỏi tiền giả là gì? Cá nhân, tổ chức có tiền giả thì tiến hành giao nộp loại tiền này ở đâu? – Hà Linh (Bạc Liêu)
Tiền giả là gì? Giao nộp tiền giả ở đâu? (Hình từ Internet)
Về vấn đề này, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT giải đáp như sau:
Ngày 08/12/2023, Chính phủ ban hành Nghị định 87/2023/NĐ-CP quy định về phòng, chống tiền giả và bảo vệ tiền Việt Nam.
1. Tiền giả là gì?
Tiền giả được hiểu là vật phẩm có một mặt hoặc hai mặt mô phỏng hình ảnh, hoa văn, màu sắc, kích thước của tiền Việt Nam để được chấp nhận giống như tiền Việt Nam, không có hoặc giả mạo các đặc điểm bảo an, không do Ngân hàng Nhà nước phát hành hoặc là tiền Việt Nam bị thay đổi, cắt ghép, chỉnh sửa để tạo ra tờ tiền có mệnh giá khác so với nguyên gốc.
(Khoản 2 Điều 3 Nghị định 87/2023/NĐ-CP)
2. Giao nộp tiền giả ở đâu?
Theo Điều 8 Nghị định 87/2023/NĐ-CP, các tổ chức, cá nhân có tiền giả thực hiện giao nộp cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Kho bạc Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước nơi gần nhất hoặc giao nộp cho cơ quan công an, cơ quan có thẩm quyền của quân đội, hải quan để chuyển về Ngân hàng Nhà nước.
Việc giao nộp tiền giả được thể hiện bằng văn bản trong đó ghi rõ loại tiền, số lượng, mệnh giá, vần seri tiền giả giao nộp theo Mẫu số 04 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định 87/2023/NĐ-CP.
Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện giao nộp tiền giả theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
3. Thu nhận, tiêu hủy tiền giả như thế nào?
Cụ thể tại Điều 9 Nghị định 87/2023/NĐ-CP quy định về thu nhận, tiêu hủy tiền giả như sau:
- Ngân hàng Nhà nước tổ chức thu nhận tiền giả để thực hiện tiêu hủy. Tiền giả được thu nhận phải được kiểm đếm theo tờ hoặc miếng và được thể hiện bằng văn bản theo Mẫu số 04 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định 87/2023/NĐ-CP, trong đó ghi rõ loại tiền, số lượng, mệnh giá, vần seri tiền giả giao nộp.
- Việc tiêu hủy tiền giả của Ngân hàng Nhà nước, bao gồm cả tiền giả liên quan đến các vụ việc vi phạm pháp luật, được thực hiện theo quy định tiêu hủy tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông của Ngân hàng Nhà nước.
4. Sử dụng tiền giả bị xử lý thế nào?
Các hành vi như làm tiền giả; vận chuyển, tàng trữ, lưu hành tiền giả;... bị pháp luật nghiêm cấm.
Do đó, việc sử dụng tiền giả thuộc vào hoạt động lưu hành tiền giả có thể bị xử phạt theo quy định tại Điều 207 Bộ luật Hình sự 2015 về Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả như sau:
- Người nào làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
- Phạm tội trong trường hợp tiền giả có trị giá tương ứng từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.
- Phạm tội trong trường hợp tiền giả có trị giá tương ứng từ 50.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
- Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.
- Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
5. Thông tin về tiền Việt Nam và thông tin về tiền giả
Ngân hàng Nhà nước thông tin công khai, rộng rãi về đặc điểm và cách nhận biết tiền Việt Nam trên các phương tiện thông tin đại chúng, cổng thông tin điện tử Ngân hàng Nhà nước hoặc các phương thức truyền thông phù hợp khác.
Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và Ngân hàng Nhà nước phối hợp, trao đổi thông tin về tiền giả xuất hiện trong lưu thông, phương thức, thủ đoạn hoạt động tội phạm liên quan đến tiền giả bằng văn bản hoặc phương thức phù hợp khác để nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng, chống tiền giả và bảo vệ tiền Việt Nam.
Ngân hàng Nhà nước, Bộ Công an xem xét, quyết định việc thông báo công khai thông tin về tiền giả để các tổ chức, cá nhân biết, phòng ngừa. Bộ Công an xem xét, quyết định công khai thông tin về phương thức, thủ đoạn hoạt động tội phạm liên quan đến tiền giả. Việc cung cấp, đăng tải thông tin liên quan đến tiền giả thực hiện theo quy định của pháp luật.
(Điều 10 Nghị định 87/2023/NĐ-CP)
Xem thêm Nghị định 87/2023/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 02/02/2024 thay thế Quyết định 130/2003/QĐ-TTg.