Lạm dụng thuốc giảm đau tăng nguy cơ rối loạn nhịp tim
Nghiên cứu mới đã chỉ ra rằng các loại thuốc giảm đau và thuốc kháng sinh thường được sử dụng có thể làm gián đoạn hoạt động điện của tim khi dùng một mình hoặc dùng cùng với thuốc khác…
Thuốc giảm đau và thuốc kháng sinh được cho là an toàn và ít/hiếm có khả năng gây hại khi dùng theo chỉ dẫn ở người bình thường.
Các thuốc này thường chỉ dùng trong thời gian ngắn, tuy nhiên ngày càng có nhiều báo cáo về các biến chứng phát sinh khi sử dụng lâu dài. Tổn thương gan, chảy máu dạ dày, bệnh thận và tử vong sớm đều có liên quan đến thuốc. Thực hành thận trọng việc dùng thuốc có thể giúp ngăn ngừa các biến chứng như rối loạn nhịp tim.
Phòng khám Cleveland năm ngoái đã đưa ra một báo cáo cảnh báo việc sử dụng một số loại thuốc giảm đau NSAID và thuốc kháng sinh cho những bệnh nhân bị rung nhĩ, cho biết: Đối với người bị rung tâm nhĩ (nhịp tim không đều) và đang sử dụng thuốc làm loãng máu để giảm nguy cơ đông máu và đột quỵ, hãy cẩn thận với thuốc chống viêm không steroid (NSAID).
NSAID bao gồm thuốc giảm đau thông thường naproxen và ibuprofen.
BS. Stephen G. Ellis (chuyên gia tim mạch) tại Phòng khám Cleveland giải thích rằng những loại thuốc này, bán sẵn không cần kê đơn và được sử dụng phổ biến để giảm đau nhức mà tất cả chúng ta gặp phải, cũng là thuốc làm loãng máu. Nếu kết hợp chúng với thuốc làm loãng máu theo toa, có thể gây chảy máu nghiêm trọng.
Thuốc giảm đau được mua rộng rãi không cần kê đơn
Cleveland Clinic cho biết thêm, những người có nguy cơ cao bị rối loạn nhịp tim cũng nên đề phòng khi sử dụng một số loại kháng sinh, vì điều này có thể dẫn đến nhịp tim nhanh, đôi khi gây tử vong.
Azithromycin là một loại kháng sinh phổ biến có liên quan đến các trường hợp tử vong do rối loạn nhịp tim liên quan đến tim mạch. Levofloxacin cho thấy nguy cơ tương tự còn amoxicillin và ciprofloxacin cho thấy rủi ro thấp hơn.
Những loại thuốc này đã được nghiên cứu về mối liên hệ của chúng với một số biến chứng tim mạch, chẳng hạn như đau tim và đột quỵ, nhưng tài liệu về mối liên hệ của chúng với nhịp tim không đều là rất ít.
Nghiên cứu từ năm 2011, xuất bản trên Tạp chí Y khoa Anh, là một trong những nghiên cứu đầu tiên nâng cao nhận thức về vấn đề này.
Các loại thuốc được đưa vào nghiên cứu là thuốc chống viêm không steroid không chọn lọc (NSAID) và thuốc chống viêm được gọi là chất ức chế COX-2.
Nghiên cứu được thực hiện bởi các nhà khoa học tại Bệnh viện Đại học Aarhus, Đan Mạch cho thấy cả hai loại thuốc giảm đau đều có liên quan đến việc tăng nguy cơ rung nhĩ.
Liên kết dường như mạnh nhất đối với những người không sử dụng, những người có nguy cơ tăng 40% đối với NSAID và tăng 70% nguy cơ đối với chất ức chế COX-2.
Nguy cơ cao nhất ở những người lớn tuổi, bệnh nhân bị bệnh thận mãn tính hoặc viêm khớp dạng thấp khi bắt đầu điều trị bằng thuốc ức chế COX-2.
Người ta cho rằng các cơ chế mà NSAID dẫn đến gia tăng các biến cố tim mạch có thể là do giảm hoạt động của prostacyclin có chọn lọc, dẫn đến cơ thể bị tổn thương nội mô. Điều này có thể dẫn đến sự phát triển của một số biến chứng tim mạch bao gồm thiếu máu cục bộ cơ tim và đột quỵ.
Theo một nghiên cứu do Quỹ Tim mạch Anh tài trợ đầu năm nay, paracetamol dùng lâu dài cũng có liên quan đến các biến chứng khác như huyết áp cao, bệnh tim và đột quỵ. Tuy nhiên, dùng paracetamol và thuốc kháng sinh theo chỉ dẫn không có khả năng gây ra những rủi ro sức khỏe đáng kể.
Ngọc Bích
(Theo EP)