Công nhận 09 xã thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn

07/02/2024 14:00

Quyết định 576/QĐ-TTg được ban hành ngày 28/6/2024 công nhận 09 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển, hải đảo giai đoạn 2021-2025 thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn.

Công nhận 09 xã thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn

Công nhận 09 xã thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn (Hình từ Internet)

Công nhận 09 xã thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn

Tại Quyết định 576/QĐ-TTg ngày 28/6/2024, Thủ tướng Chính phủ công nhận 09 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo giai đoạn 2021 - 2025 thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn và đưa ra khỏi Danh sách xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo giai đoạn 2021 - 2025 tại Phụ lục II ban hành kèm theo Quyết định 353/QĐ-TTg ngày 15/3/2022 phê duyệt danh sách huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo giai đoạn 2021 - 2025 như sau:

- 03 xã thuộc Tỉnh Thừa Thiên Huế: xã Điền Hương và xã Phong Chương thuộc huyện Phong Điền; xã Phú Diên thuộc huyện Phú Vang.

- 01 xã thuộc Tỉnh Long An: Xã Phước Vĩnh Đông thuộc huyện Cần Giuộc.

- 04 xã thuộc Tỉnh Bến Tre: xã An Thuận, xã Bình Thạnh và xã Mỹ Hưng thuộc huyện Thạnh Phú; xã An Thủy (nay là thị trấn Tiệm Tôm) thuộc huyện Ba Tri.

- 01 xã thuộc Tỉnh Sóc Trăng: Xã Nhơn Mỹ thuộc huyện Kế Sách.

Tiêu chí xác định xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo

Điều 4 Quyết định 36/2021/QĐ-TTg về tiêu chí huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo giai đoạn 2021 – 2025 quy định tiêu chí xác định xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo gồm 02 tiêu chí, cụ thể như sau:

(1) Xã có đường ranh giới tiếp giáp bờ biển hoặc xã cồn bãi, cù lao, đầm phá, bán đảo, hải đảo có tỷ lệ hộ nghèo và hộ cận nghèo từ 15% trở lên theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 - 2025; xã bị ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn liên tục từ 03 tháng trở lên trong năm và có tỷ lệ hộ nghèo và hộ cận nghèo từ 12% trở lên theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 - 2025.

(2) Thiếu (hoặc chưa đạt) từ 3/9 công trình cơ sở hạ tầng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, phục vụ dân sinh, cụ thể:

- Xã chưa đạt tiêu chí quốc gia về y tế theo quy định của Bộ Y tế.

- Cơ sở vật chất của trường mầm non hoặc tiểu học hoặc trung học cơ sở chưa đạt mức 2 chuẩn quốc gia theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

- Tỷ lệ phòng học kiên cố của nhà trẻ, lớp mẫu giáo theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo đạt dưới 75%.

- Chưa có nhà văn hóa hoặc hội trường đa năng và sân thể thao phục vụ sinh hoạt văn hóa, thể thao của toàn xã đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

- Tỷ lệ hộ gia đình tiếp cận được nguồn nước sạch trong sinh hoạt theo quy định của Bộ Y tế đạt dưới 85%.

- Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh theo quy định của Bộ Y tế đạt dưới 70%.

- Tỷ lệ km đường trục xã, liên xã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ Giao thông vận tải đạt dưới 85%.

- Tỷ lệ km đường trục thôn, xóm được cứng hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ Giao thông vận tải đạt dưới 75%.

- Tỷ lệ km đường trục chính nội đồng được cứng hóa, xe cơ giới đi lại thuận tiện đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ Giao thông vận tải đạt dưới 40% (riêng khu vực đồng bằng sông Cửu Long dưới 30%).

Trần Trọng Tín