Từ 1/2025, số loại giấy phép lái xe tăng lên 15

09/07/2024 09:00

Luật Trật tự an toàn giao thông đường bộ quy định 15 loại giấy phép lái xe, hạng A1 được cấp cho người lái xe máy đến 125 cc, gộp bằng lái ôtô B1 và B2 thành B.

Từ ngày 1/1/2025, Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ bắt đầu có hiệu lực với nhiều điểm mới về phân hạng giấy phép lái xe. Luật quy định 15 hạng gồm: A, A1, B, B1, C, C1, D, D1, D2, BE, C1E, CE, DE, D1E, D2E, tăng 2 hạng so với luật hiện hành.

Trong đó hạng A1 cấp cho người lái môtô hai bánh có dung tích xi-lanh đến 125 cm3 hoặc công suất động cơ điện đến 11kW. Hạng A cấp cho người lái môtô hai bánh có dung tích xi-lanh trên 125 cm3 hoặc công suất động cơ trên 11kW và các loại xe quy định cho giấy phép lái xe hạng A1.

Hạng B1 cấp cho người lái môtô ba bánh và các loại xe quy định cho giấy phép lái xe hạng A1.

Với ôtô, giấy phép hạng B dành cho người lái xe đến 8 chỗ (không kể chỗ lái xe); ôtô tải và chuyên dùng đến 3,5 tấn. So với Luật giao thông đường bộ 2008, hạng B đã được gộp giữa bằng B1 (cấp cho không hành nghề lái xe đi ôtô đến 9 chỗ ngồi; xe tải dưới 3,5 tấn) và bằng B2 (cấp cho người hành nghề lái xe điều khiển xe đến 9 chỗ ngồi; xe ôtô tải dưới 3,5 tấn).

Giấy phép lái xe hạng C trước đây dành cho lái xe tải từ 3,5 tấn trở lên được tách thành C1 (dành cho lái xe 3,5-7,5 tấn) và C (trên 7,5 tấn).

Hạng D trước đây cấp cho lái xe chở người từ 10 đến 30 chỗ được tách thành các hạng D1 (từ 8 đến 16 chỗ, không kể chỗ của lái xe) và D2 (từ 16 đến 29 chỗ), hạng D (trên 29 chỗ).

Hạng BE cấp cho người lái các loại xe ôtô quy định cho giấy phép lái xe hạng B kéo rơ moóc có khối lượng toàn bộ theo thiết kế trên 750 kg.

Tương tự, các hạng C1E, CE, D1E, D2E, DE được cấp cho người lái các loại xe ôtô hạng C1, C, D1, D2, D kéo rơ moóc có khối lượng toàn bộ theo thiết kế trên 750 kg.

Bằng lái xe ôtô B2. Ảnh:Phương Sơn

Bằng lái xe ôtô B2. Ảnh:Phương Sơn

Luật mới kế thừa Luật hiện hành và các văn bản hướng dẫn quy định giấy phép lái xe các hạng A1, A, B1 không thời hạn; giấy phép hạng B và hạng C1 thời hạn 10 năm; giấy phép hạng C, D1, D2, D và các giấy phép lái xe rơ moóc chỉ 5 năm.

Về độ tuổi được lái xe, Luật mới quy định người đủ 16 tuổi trở lên được điều khiển xe gắn máy (dung tích dưới 50 cm3; động cơ điện không lớn hơn 4 kW); người đủ 18 tuổi trở lên được cấp giấy phép lái xe hạng A1, A, B1, B, C1.

Người đủ 21 tuổi trở lên được cấp giấy phép lái xe hạng C, BE; người đủ 24 tuổi trở lên được cấp giấy phép lái xe hạng D1, D2, C1E, CE; người đủ 27 tuổi trở lên được cấp giấy phép lái xe hạng D, D1E, D2E, DE.

Lý giải việc tăng số loại giấy phép lái xe từ 13 lên 15, thượng tá Tạ Thị Hồng Minh, Phó trưởng phòng Hướng dẫn tuyên truyền và điều tra, giải quyết tai nạn giao thông, Cục Cảnh sát giao thông, Bộ Công an, cho biết hệ thống giấy phép lái xe quy định tại Luật Giao thông đường bộ 2008 có nhiều điểm không tương thích với phân hạng của Công ước Viên năm 1968 và nhiều quốc gia.

Cụ thể, nhiều phân hạng bằng lái xe máy và ôtô của Việt Nam không phù hợp về dung tích xi lanh, số chỗ ngồi, khối lượng phương tiện. Việt Nam cũng chưa phân hạng với xe điện, ôtô mini buýt, xe tải cỡ nhỏ. Tên gọi các hạng bằng lái cũng chưa phù hợp với chuẩn thế giới. Bộ Công an đề xuất thay đổi hạng giấy phép lái xe nhằm tương thích với Công ước Viên 1968 và thế giới.

Theo Luật mới, giấy phép lái xe máy, ôtô được cấp trước ngày Luật có hiệu lực thi hành được tiếp tục sử dụng bình thường theo thời hạn ghi trên giấy phép, tuy nhiên khuyến khích người dân đổi giấy phép lái xe không thời hạn được cấp trước ngày 1/7/2012.

Khi người có giấy phép lái xe đã được cấp trước ngày Luật này có hiệu lực có nhu cầu đổi, cấp lại sẽ được áp dụng theo nguyên tắc sau: Người có giấy phép hạng A1 (theo Luật giao thông đường bộ 2008) được chuyển sang hạng A, song chỉ được điều khiển xe môtô đến 175 cm3 hoặc động cơ điện đến 14 kW. Hạng A2 được đổi sang hạng A; hạng A3 được đổi sang hạng B1.

Người có giấy phép hạng B1 số tự động được đổi, cấp lại sang hạng B, song chỉ được điều khiển ôtô số tự động; hạng B1, B2 được đổi sang hạng B và C1; hạng C được đổi cùng loại; hạng D được đổi, cấp lại sang hạng D2; hạng E được đổi, cấp lại sang hạng D; hạng FB2 được đổi, cấp lại sang C1E...

Trừ điểm giấy phép nếu lái xe vi phạm

Luật mới quy định mỗi giấy phép lái xe có 12 điểm, lái xe sẽ bị trừ điểm mỗi lần vi phạm. Dữ liệu về điểm trừ sẽ được cập nhật vào hệ thống cơ sở dữ liệu ngay sau khi quyết định xử phạt có hiệu lực thi hành và thông báo cho người bị trừ điểm giấy phép lái xe biết.

Giấy phép lái xe được phục hồi đủ 12 điểm khi chưa bị trừ hết điểm và không bị trừ điểm trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày bị trừ điểm gần nhất. Trường hợp giấy phép lái xe bị trừ hết điểm thì người có giấy phép lái xe không được điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ theo loại giấy phép lái xe đó.

Sau ít nhất 6 tháng kể từ ngày bị trừ hết điểm, người có giấy phép lái xe phải kiểm tra kiến thức pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ, do cảnh sát giao thông tổ chức, kết quả đạt yêu cầu thì được phục hồi đủ 12 điểm.

Theo Bộ Công an, đây là một biện pháp quản lý nhà nước, không phải là hình thức xử phạt vi phạm hành chính. Mục đích là quản lý người lái xe trong suốt quá trình từ khi đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép cho đến quá trình chấp hành pháp luật. Trừ điểm bằng lái còn nhằm cải thiện hành vi, nâng cao ý thức, giúp cơ quan quản lý giám sát toàn diện quá trình chấp hành sau vi phạm của lái xe.

Để triển khai, đại diện Bộ Công an cho biết Chính phủ sẽ ban hành quy định cụ thể thẩm quyền, căn cứ, trình tự, thủ tục trừ điểm, phục hồi giấy phép lái xe; các hành vi vi phạm nghiêm trọng, nguy cơ gây mất an toàn giao thông cao.

Chưa nộp phạt nguội, tài xế không được cấp đổi giấy phép lái xe

Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ cũng quy định tài xế chưa chấp hành xử lý vi phạm hành chính do vi phạm giao thông đường bộ sẽ chưa được cấp, đổi, cấp giấy phép lái xe.

Người có giấy phép lái xe được đổi, cấp lại trong các trường hợp như: Giấy bị mất; bị hỏng không còn sử dụng được; theo thời hạn ghi trên giấy phép lái xe; thay đổi thông tin ghi trên giấy phép; giấy phép lái xe nước ngoài do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp còn giá trị sử dụng; giấy phép lái xe do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an cấp khi có yêu cầu hoặc người được cấp không còn làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.

Giấy phép lái xe sẽ bị thu hồi trong các trường hợp như: Người được cấp giấy phép không đủ điều kiện sức khỏe theo kết luận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đối với từng hạng giấy phép; giấy được cấp sai quy định; giấy phép đã quá thời hạn tạm giữ hoặc hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Người vi phạm không đến nhận mà không có lý do chính đáng cũng sẽ bị thu hồi.

Ngành giao thông đang quản lý 55,6 triệu giấy phép lái xe, cả ôtô và xe máy. Trong đó có khoảng 22 triệu giấy phép môtô không thời hạn bằng vật liệu giấy (các loại bằng A1, A2 và A3) được cấp từ năm 1995 đến tháng 7/2012 cần đổi sang thẻ nhựa (PET) để có thể tích hợp vào hệ thống VNeID.