Người mẹ ném con 2 tháng tuổi từng tầng 5 bệnh viện xuống đất sẽ bị xử lý thế nào?
PLBĐ - Vụ việc người mẹ có biểu hiện trầm cảm ném con trai 2 tháng tuổi từ tầng 5 bệnh viện xuống đất dẫn tới tử vong đang khiến dư luận xôn xao. Nhiều người thắc mắc, pháp luật có truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người mẹ này như những trường hợp giết người bình thường khác hay không?
Ngày 16/6, Công an huyện Bình Chánh (TP. Hồ Chí Minh) đã lấy lời khai, củng cố hồ sơ để làm rõ, xử lý P.T.Q. (SN 1985, quê Long An) khi có hành vi ném con trai 2 tháng tuổi từ lầu 5 bệnh viện xuống đất khiến bé trai tử vong.
Theo lời khai của Q., sáng 14/6, Q. cùng chồng đưa con trai 2 tháng tuổi đến Bệnh viện Nhi đồng Thành phố (cơ sở 2, huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh) khám bệnh. Sau khi thăm khám và thực hiện các bước xét nghiệm, bác sĩ cho biết bé trai bị trào ngược dạ dày, thực quản. Vì muốn khám tổng quán để trị dứt điểm cho con, Q. đã gặp chồng trao đổi. Chồng của Q. cho rằng Q. không tin kết quả khám bệnh của bác sĩ, muốn khám lại nên giữa 2 xảy ra mâu thuẫn. Chồng Q. bỏ xuống căn tin bệnh viện ngồi, Q. tiếp tục bế con đi đăng ký khám lại.
Sau khi khám lại, bác sĩ vẫn có kết luận như trên kèm theo thông tin bé trai bị phổi yếu. Q. yêu cầu bác sĩ cho con mình nhập viện nên bác sĩ đã cho bé đến Khoa chăm sóc sơ sinh tại lầu 2.
Q. gọi điện cho chồng nói chờ vì con bệnh nặng phải nhập viện. Trên giường bệnh, Q. thấy con mình quấy khóc, nghĩ đến việc con bệnh nặng, không có tiền trị bệnh nên nghĩ quẫn, Q. bế con trai mình lên lầu 5 của bệnh viện và ném qua cửa thông gió xuống đất.
Sau khi ném con, Q. lên tầng 6 ngồi bất động trong một căn phòng. Khi bé trai được phát hiện tử vong, mọi người chạy đi tìm kiếm và vận động Q. ra khỏi căn phòng trên lầu 6.
Bước đầu Công an huyện Bình Chánh nghi ngờ Q. bị trầm cảm nên gây ra vụ việc trên.
Vụ việc trên khiến nhiều người không khỏi bàng hoàng, xót xa. Theo dõi vụ việc việc, nhiều bạn đọc, pháp luật có truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người mẹ này như những trường hợp giết người bình thường khác hay không?
Giải đáp thắc mắc trên, trao đổi với Tri Thức và Cuộc sống, luật sư Nguyễn Ngọc Hùng - Trưởng Văn phòng luật sư Kết nối (Đoàn luật sư TP. Hà Nội) cho biết: "Về vụ việc cháu bé bị mẹ ruột ném từ tầng 5 xuống dẫn đến cháu bị tử vong. Thông tin ban đầu cho rằng người mẹ nghi bị trầm cảm sau sinh, xin nhắc lại đây là thông tin chưa được xác minh làm rõ. Theo quan điểm của tôi, trách nhiệm pháp lý của người mẹ chỉ được xác định sau khi có kết quả giám định tâm thần đối với người mẹ trong trường hợp này".
Luật sư Hùng cho hay, căn cứ Điều 21 Bộ luật Hình sự năm 2015, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người mẹ chỉ không có tội và không phải chịu trách nhiệm pháp lý khi mắc bệnh dẫn đến mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi. Nghĩa là hành vi ném con mình từ tầng 5 xuống đất chỉ là rủi ro hoàn toàn mang tính khách quan và người mẹ không có lỗi. Người không có lỗi thì không có tội.
"Ngược lại, nếu kết quả giám định tâm thần cho thấy người mẹ thực hiện hành vi ném con mình xuống đất trong trạng thái vẫn có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi thì người mẹ phải chịu trách nhiệm hình sự. Bởi vì khi đó người mẹ cố ý làm chết con của mình, đây là hành vi mang tính chủ quan của người mẹ.
Khi đó người mẹ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội "Giết người" theo điểm b khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015. Hành vi này thuộc khung hình phạt tăng nặng với tình tiết "Giết người dưới 16 tuổi", hình phạt đối với người phạm tội trong trường hợp này là phạt tù 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình", luật sư Hùng nói.
Điều 123. Tội giết người
1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Giết 02 người trở lên;
b) Giết người dưới 16 tuổi;
c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;
n) Có tính chất côn đồ;
o) Có tổ chức;
p) Tái phạm nguy hiểm;
q) Vì động cơ đê hèn.
2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.
T.H (th)