Kết luận của Phó Thủ tướng về Nghị định xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực đất đai
Bài viết dưới đây sẽ cung cấp nội dung Kết luận của Phó Thủ tướng về Nghị định xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực đất đai
Kết luận của Phó Thủ tướng về Nghị định xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực đất đai (Hình từ internet)
Ngày 18/9/2024, Văn phòng Chính phủ có Thông báo 425/TB-VPCP về Kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà tại cuộc họp trực tiếp và trực tuyến về Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Kết luận của Phó Thủ tướng về Nghị định xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực đất đai
Cụ thể, sau khi nghe báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, ý kiến phát biểu của đại diện các bộ, cơ quan, địa phương dự họp, Phó Thủ tướng Chính phủ kết luận:
- Luật Đất đai 2024 có hiệu lực từ ngày 01/8/2024, các nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai 2024 đã được ban hành đòi hỏi Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai sớm được hoàn thiện, đảm bảo sự phù hợp, đồng bộ và thống nhất của hệ thống pháp luật về đất đai, đáp ứng yêu cầu của xã hội trong giai đoạn hiện nay. Phó Thủ tướng Chính phủ hoan nghênh các bộ, địa phương và các cơ quan thông qua thực tiễn của mình đã đóng góp ý kiến cụ thể, chi tiết về các hành vi vi phạm, mức xử phạt, hình thức xử phạt bổ sung, các biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân liên quan, làm rõ những bất cập, hoàn thiện hơn nội dung dự thảo Nghị định.
- Để tiếp tục hoàn thiện dự thảo Nghị định, Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp và các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu ý kiến đóng góp tại cuộc họp, rà soát dự thảo Nghị định, đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và nguyên tắc thống nhất, đồng bộ với các quy định của Luật Đất đai 2024, Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, Luật Thanh tra 2022 và các quy định của pháp luật chuyên ngành có liên quan. Trong đó, lưu ý:
+ Cần rà soát các quy định của Luật Đất đai 2024 và các nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai 2024 để bổ sung đầy đủ các hành vi, đối tượng như: vi phạm trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi trên đất lúa; chưa làm thủ tục giao đất mà đã tiến hành xây dựng công trình; lấn đất, chiếm đất chưa sử dụng …; rà soát với Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản để không trùng lắp, đồng thời tránh bỏ lọt hành vi. Làm rõ một số khái niệm để dễ hiểu, dễ thực hiện.
+ Nghị định cần quy định rõ nội hàm, tính chất của các hành vi vi phạm, đối tượng vi phạm phù hợp với thực tiễn, dễ hiểu, dễ kiểm tra, dễ phát hiện, dễ lượng hóa trong thực thi và giám sát việc thực thi; phải có các chế tài đủ mạnh, đủ sức răn đe đề ngăn ngừa các hành vi vi phạm; thúc đẩy phân cấp, phân quyền, quy định rõ trách nhiệm của từng cấp, từng ngành; thiết lập công cụ kiểm soát quyền lực của cơ quan, người có thẩm quyền trong quản lý đất đai nhất là tăng cường trách nhiệm của cấp xã (cấp trực tiếp quản lý đất đai trên địa bàn) trong phát hiện, xử lý và báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm.
+ Về quy định xác định số lợi bất hợp pháp cần có quy định đảm bảo tính khả thi, phù hợp với Luật Đất đai 2024 (Điều 171, Điều 172…) và thực tiễn tại các địa phương; có quy định xử lý số lợi bất hợp pháp đối với trường hợp nhiều tổ chức hoặc cá nhân cùng vi phạm, cùng hưởng lợi từ một vụ việc vi phạm.
+ Đối với tính hợp hiến, hợp pháp trong quy định về thu hồi đất, Bộ Tài nguyên và Môi trường rà soát quy định trong Luật Đất đai 2024 về các trường hợp thu hồi đất do vi phạm, thẩm quyền, trách nhiệm đảm bảo đã được Luật định; trên cơ sở đó thống nhất với Bộ Tư pháp báo cáo Chính phủ xem xét, quyết định.
+ Đối với các hành vi có yếu tố lịch sử mà chưa có văn bản xử lý như: không xử lý đối với trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất trước ngày 15/10/1993 mà chưa có văn bản xử lý vi phạm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước ngày Luật Đất đai 2024 có hiệu lực thi hành (khoản 4 Điều 3 dự thảo Nghị định),…, Bộ Tài nguyên và Môi trường rà soát các quy định của pháp luật qua từng thời kỳ, làm rõ sự phù hợp với Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 để có quy định xử lý trong Nghị định phù hợp với hành vi.
+ Về quy định xử lý đối với một người vi phạm cùng một hành vi tại nhiều thửa đất trên cùng một địa giới hành chính cấp xã hoặc trong cùng một dự án: Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì phối hợp với Bộ Tư pháp căn cứ vào nguyên tắc quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 để có quy định phù hợp với tính chất, quy mô, mức độ vi phạm, đảm bảo có tính răn đe, ngăn ngừa đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước tại địa phương và đúng quy định của pháp luật.
+ Quy định các nguyên tắc, tiêu chí, các trường hợp phải khôi phục nguyên trạng, trong đó có quy định trách nhiệm khôi phục nguyên trạng đối với trường hợp nhiều tổ chức hoặc cá nhân cùng vi phạm từ một vụ việc và giao Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quy định cụ thể về khôi phục lại tình trạng ban đầu đảm bảo khả thi, phù hợp với thực tế tại địa phương.
+ Về hình thức xử phạt bổ sung “tước quyền sử dụng giấy phép có thời hạn” chỉnh lý theo hướng trường hợp giấy phép còn thời hạn ít hơn thời hạn xử phạt thì áp dụng thời hạn tước là thời hạn còn lại của giấy phép và chỉ được cấp lại sau thời gian tước theo quy định của pháp luật đảm bảo thống nhất với dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 đang trình Chính phủ.
+ Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm, kinh phí đo đạc xác định diện tích đất vi phạm trong trường hợp không có dữ liệu về hồ sơ địa chính của thửa đất đảm bảo tính khả thi, phù hợp với thực tiễn.
- Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường rà soát bổ sung thẩm quyền lập biên bản, thẩm quyền xử phạt của các cơ quan khác như cơ quan thanh tra của quốc phòng, công an, nông nghiệp… phù hợp với thẩm quyền quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012.
- Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên cơ sở thực tiễn gửi ý kiến góp ý cụ thể đến Bộ Tài nguyên và Môi trường để nghiên cứu, hoàn thiện dự thảo Nghị định. Bộ Tài nguyên và Môi trường sau khi nghiên cứu, tiếp thu, giải trình và báo cáo Phó Thủ tướng Chính phủ trước 20/9/2024.
Dự thảo Nghị định xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực đất đai mới nhất
Dự thảo Nghị định xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực đất đai (Dự thảo 3) |
Theo đó, quy định cụ thể một số hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai như sau:
- Chiếm đất do Nhà nước đã quản lý quy định tại khoản 9 Điều 3 Luật Đất đai 2024 bao gồm:
+ Đất do Nhà nước đã quản lý gồm các diện tích đất đã được đăng ký vào hồ sơ địa chính đứng tên cơ quan, tổ chức của Nhà nước;
+ Đất do Nhà nước đã có quyết định giao đất, cho thuê đất nhưng người được giao đất, cho thuê đất chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính và chưa được bàn giao đất trên thực địa.
- Hủy hoại đất quy định tại khoản 27 Điều 3 Luật Đất đai 2024 bao gồm:
+ Làm biến dạng địa hình trong các trường hợp: thay đổi độ dốc bề mặt đất; hạ thấp bề mặt đất do lấy đất mặt dùng vào việc khác hoặc làm cho bề mặt đất thấp hơn so với thửa đất liền kề; san lấp đất có mặt nước chuyên dùng (trừ hồ thủy lợi) hoặc san lấp nâng cao, hạ thấp bề mặt của đất sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản so với các thửa đất liền kề, trừ trường hợp cải tạo đất nông nghiệp thành ruộng bậc thang và hình thức cải tạo đất khác phù hợp với mục đích sử dụng đất được giao, được thuê, được công nhận quyền sử dụng đất hoặc phù hợp với dự án đầu tư đã được Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất phê duyệt hoặc chấp thuận;
+ Làm suy giảm chất lượng đất trong các trường hợp: làm mất hoặc giảm độ dầy tầng đất đang canh tác; làm thay đổi lớp mặt của đất sản xuất nông nghiệp bằng các loại vật liệu, chất thải hoặc đất lẫn cát, sỏi, đá hay loại đất có thành phần khác với loại đất đang sử dụng; gây bạc màu, gây xói mòn, rửa trôi đất nông nghiệp;
+ Gây ô nhiễm đất là trường hợp đưa vào trong đất các chất độc hại hoặc vi sinh vật, ký sinh trùng có hại cho cây trồng, vật nuôi, con người;
+ Làm mất khả năng sử dụng đất theo mục đích đã được xác định là trường hợp sau khi thực hiện một trong các hành vi quy định tại các điểm a, b và c khoản này mà dẫn đến không sử dụng đất được theo mục đích được Nhà nước giao, cho thuê, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất;
+ Làm giảm khả năng sử dụng đất theo mục đích đã được xác định là trường hợp sau khi thực hiện một trong các hành vi quy định tại các điểm a, b và c khoản này mà dẫn đến việc sử dụng đất kém hiệu quả và phải đầu tư cải tạo đất để có thể sử dụng đất theo mục đích đã được Nhà nước giao, cho thuê, cho in phép chuyển mục đích sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất.