Việt Nam cần làm gì sau quyết định hạ lãi suất bước ngoặt của Fed?
Quyết định hạ lãi suất đồng USD của Fed sẽ tạo ra rất nhiều tác động lên chi phí lãi vay và biến động dòng vốn đầu tư trên toàn cầu.
Mới đây, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã có quyết định hạ lãi suất mang tính lịch sử 0,5%. Nhiều chuyên gia nhận định quyết định nới lỏng chính sách tiền tệ mạnh tay của Fed sẽ tạo ra tác động toàn cầu. Việt Nam cũng không thể tránh khỏi những ảnh hưởng.
TS Cấn Văn Lực - Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đã có những chia sẻ với PLO về tác động từ quyết định chính sách phía Mỹ đến Việt Nam cũng như những phản ứng chính sách mà Việt Nam cần tính đến trong tình hình mới.
Ông Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) - Ảnh: Thị trường Tài chính Tiền tệ
-Theo quan điểm của ông, đâu là những yếu tố phía sau quyết định hạ lãi suất của Fed?
+ TS Cấn Văn Lực: Thứ nhất, lạm phát và chỉ số giá tiêu dùng cá nhân tại Mỹ dần hạ nhiệt về mức mục tiêu 2% một cách bền vững", là tiền đề để Fed xem xét, điều chỉnh chính sách tiền tệ, hạ lãi suất nhằm hỗ trợ phục hồi, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cũng như đảm bảo sự ổn định của thị trường tài chính Mỹ và toàn cầu.
Thứ hai, hiện kinh tế Mỹ duy trì đà phục hồi nhưng tỷ lệ thất nghiệp còn cao (4,2% trong tháng 8) và tiêu dùng còn yếu.
Thứ ba, rủi ro tài khóa và tài chính của Mỹ vẫn ở mức cao với nợ công đạt đỉnh (124% GDP) và nợ tư (145% GDP) cuối tháng 6/2024 (theo Fed). Việc giảm lãi suất điều hành kéo theo nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ, người dân và doanh nghiệp giảm theo, giảm dần rủi ro tài chính, giúp kinh tế Mỹ phục hồi và tăng trưởng bền vững hơn.
-Vậy trong bối cảnh toàn cầu đó, kinh tế - tài chính Việt Nam chịu tác động ra sao từ quyết định hạ lãi suất quan trọng này của Fed?
+ Trước tiên, lãi suất toàn cầu có xu hướng giảm sẽ kích cầu tiêu dùng, đầu tư, sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp và người dân, giúp kinh tế thế giới giữ đà tăng trưởng và bền vững hơn, kích cầu hàng hóa - dịch vụ, từ đó thúc đẩy nhu cầu hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh độ mở của nền kinh tế Việt Nam ở mức cao và Mỹ, châu Âu là thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam (trong 8 tháng năm 2024, xuất khẩu của VN sang Mỹ tăng 25,4%, chiếm 29%; sang châu Âu 18,5%, chiếm 13% tăng tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam…).
Cùng với đó, kỳ vọng dòng vốn FDI vào thị trường mới nổi, trong đó có Việt Nam cũng sẽ tăng lên.
Thứ hai, giảm áp lực tỷ giá: Việc Fed giảm lãi suất sẽ khiến đồng USD xuống giá so với hầu hết các đồng tiền khác (trong đó có VND) làm giảm sức ép tỷ giá USD/VND (như nêu trên). Thực tế là thị trường đã chiết khấu một phần lớn, tỷ giá hạ nhiệt từ mức tăng khoảng 4,9% hồi cuối tháng 5-2024 xuống còn 1,6% hết ngày 18-9-2024. Dự báo tỷ giá USD/VND sẽ chỉ tăng khoảng 1,3-1,7% cả năm 2024.
Việc tỷ giá ổn định hơn góp phần giảm chi phí nhập khẩu trong khi tác động không nhiều đối với xuất khẩu của Việt Nam do cấu trúc nền kinh tế.
Tỷ giá biến động tác động không nhiều đến xuất nhập khẩu của Việt Nam vì 2 lý do: Xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là của khối doanh nghiệp FDI (chiếm trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2011-2022); theo đó, để xuất khẩu, khối doanh nghiệp này phải nhập khẩu tương ứng (chiếm khoảng 55% tỷ trọng nhập khẩu của Việt Nam) cho dù tỷ giá thay đổi (khối DN này cũng có lợi thế về nguồn vốn USD từ công ty mẹ); ngoài ra doanh nghiệp và các tổ chức tài chính ngày càng quan tâm, có nhiều công cụ hơn để kiểm soát rủi ro tỷ giá (bao gồm cả các công cụ phái sinh).
Trái với lo ngại của nhiều người, đồng USD hạ giá không ảnh hưởng quá mạnh đến xuất nhập khẩu của Việt Nam - Ảnh: Chính Phủ
Thứ ba, góp phần ổn định mặt bằng lãi suất, giảm chi phí vốn nợ và đầu tư bằng ngoại tệ của doanh nghiệp tại Việt Nam. Tại Việt Nam, lãi suất ngoại tệ giảm, góp phần ổn định mặt bằng lãi suất nói chung (trong bối cảnh lãi suất huy động đang tăng), giảm chi phí vốn vay bằng ngoại tệ đối với cả vốn vay cũ và mới.
Ngoài ra, chi phí vốn vay của Chính phủ và doanh nghiệp FDI bằng ngoại tệ cũng giảm một phần. Điều này vừa góp phần giảm rủi ro nợ vay vừa kích cầu tín dụng, đầu tư trong thời gian tới.
Thứ tư, tác động tích cực đối với thị trường chứng khoán (TTCK) và dòng vốn đầu tư, nhất là đầu tư gián tiếp nước ngoài. Trong 8 tháng, TTCK Việt Nam tiếp tục phục hồi dù còn nhiều thách thức. Chỉ số VNIndex đã tăng hơn 13% so với đầu năm. Tuy nhiên, lũy kế 8 tháng đầu năm nhà đầu tư (NĐT) ngoại đã bán ròng 64 nghìn tỷ đồng (2,6 tỷ USD), một phần là do chênh lệch lãi suất USD/VND còn cao thời gian qua.
Khi Fed và NHTW các nước phát triển bắt đầu tiến trình hạ lãi suất, chênh lệch lãi suất sẽ giảm, xu hướng rút vốn từ các thị trường mới nổi (trong đó có Việt Nam) quay về đầu tư tại thị trường Mỹ và một số thị trường phát triển khác nhằm trú ẩn rủi ro, hưởng chênh lệch lãi suất, sẽ giảm dần.
Hơn nữa, giá chứng khoán Việt Nam hiện nay đang tương đối hấp dẫn và kỳ vọng TTCK Việt Nam có thể được nâng hạng từ mới nổi lên cận biên bởi Tổ chức FTSE Russel trong năm 2025...v.v. Thực tế là từ đầu tháng 9-2024 đến nay, xu hướng mua ròng của nhà đầu tư ngoại đã bắt đầu tăng trở lại.
-Vậy trong bối cảnh đó, Việt Nam nên có quyết sách gì để thích nghi với tình hình mới?
+ Theo tôi, các Bộ, trước hết, bộ ngành, địa phương cần tiếp tục nghiêm túc thực hiện Nghị quyết 01 và 02/NQ-CP ngày 5-1-2024; các Nghị quyết của Đảng, Quốc Hội, các nghị quyết, Nghị định, Chỉ thị của Chính phủ gần đây, nhất là sớm khắc phục hậu quả cơn bão số 3 vừa qua; tiếp tục bám sát, chủ động phân tích, dự báo và có kịch bản ứng phó phù hợp đối với tình hình kinh tế, tài chính quốc tế; đẩy nhanh tháo gỡ vướng mắc, rào cản; tăng cường bình ổn, lành mạnh hóa thị trường tài chính, bất động sản, thị trường vàng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô cả năm 2024 và tiếp theo.
Hai là, nâng cao hiệu quả trong điều hành, phối hợp chính sách (đặc biệt giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, chính sách giá cả và các chính sách vĩ mô khác) nhằm thúc đẩy tăng trưởng, kiểm soát lạm phát, ổn định vĩ mô, bình ổn tỷ giá, thị trường tài chính - tiền tệ, đảm bảo an sinh xã hội.
Ba là, kiên định chính sách tiền tệ như thời gian qua, trong đó tiếp tục linh hoạt sử dụng nhiều công cụ khác nhau nhằm ổn định mặt bằng lãi suất, tỷ giá và thị trường ngoại hối, thị trường vàng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và kiểm soát lạm phát trong mục tiêu. Chính phủ tiếp tục ưu tiên các giải pháp nâng hạng TTCK nhằm tận dụng cơ hội dịch chuyển, phân bổ tài sản đầu tư quốc tế cũng như kiểm soát rủi ro trong chu kỳ lãi suất giảm như nêu trên.
Cảm ơn những chia sẻ của ông!