Đau đầu, mắt nhìn mờ, người đàn ông 65 tuổi mắc đột quỵ hiếm gặp
GĐXH – Trước khi vào viện, người bệnh xuất hiện đau đầu, không buồn nôn, không nôn, mắt phải sụp mi và mất thị lực nên được đưa đi cấp cứu.
Ngày 30/9, thông tin từ Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 cho biết, mới đây, các bác sĩ đơn vị này đã phẫu thuật thành công cho một bệnh nhân bị đột quỵ tuyến yên.
Bệnh nhân nam (65 tuổi) là thương binh 1/4 cụt 2 chân, nhập viện trong tình trạng đau đầu, sụp mi mắt phải và mất thị lực mắt phải, nhìn mờ mắt trái. Người bệnh đã được chẩn đoán u tuyến yên từ năm 2021 có chỉ định phẫu thuật nhưng người bệnh và gia đình chưa đồng ý, chỉ theo dõi nội khoa.
Trước khi vào viện 3 ngày, người bệnh xuất hiện đau đầu, không buồn nôn, không nôn, mắt phải sụp mi và mất thị lực. Tình trạng không cải thiện nên bệnh nhân được người nhà đưa đến Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 thăm khám.
Tại đây, người bệnh được chụp CT scan sọ não (người bệnh không chụp MRI vì có mảnh kim loại trong người) thấy khối kích thước 20x30 mm, có xâm lấn gây huỷ xương vùng hố yên; khảo sát hormone: Cortisol thấp, FT4 thấp, Natri máu thấp.
Nhận định đây là ca bệnh khá hiếm gặp, các chuyên khoa trong bệnh viện gồm: Nội tiết, phẫu thuật thần kinh, mắt, chẩn đoán hình ảnh và một số khoa liên quan tham gia phẫu thuật đã tổ chức hổi chẩn khẩn cấp.
Sau hội chẩn, người bệnh được chẩn đoán đột quỵ tuyến yên và chỉ định phẫu thuật cấp cứu. Cuộc phẫu thuật nội soi lấy u diễn ra trong 2 giờ đồng hồ, hình ảnh trong phẫu thuật là hình ảnh xuất huyết trong u.
Sau phẫu thuật, người bệnh tiếp tục được bổ sung hormone: Hydrocortisone và Levothyrox, thị lực mắt trái hồi phục hoàn toàn. Bệnh nhân đã được xuất viện.
Đột quỵ tuyến yên là gì?
TS.BSCKI. Nguyễn Thị Thuý - Phó Chủ nhiệm Khoa Nội tiết, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 cho biết, đột quỵ tuyến yên là tình trạng xuất huyết hoặc nhồi máu tuyến yên, thường xảy ra ở u tuyến yên đã tồn tài từ trước. Đột quỵ tuyến yên được mô tả lần đầu vào năm 1897, xảy ra ở khoảng 1,5-27,7% trong các trường hợp u tuyến yên và ước tính khoảng 0,2% mỗi năm.
Khác với đột quỵ não là một khái niệm rất quen thuộc, đột quỵ tuyến yên chưa được nhiều người nhận biết. Những khối u tuyến yên có kích thước >10mm và khối u phát triển nhanh có nguy cơ đột quỵ tuyến yên cao hơn. Việc phát hiện sớm, đánh giá đúng và điều trị kịp thời sẽ cải thiện được tình trạng bệnh.
Lý giải về việc xảy ra đột quỵ tuyến yên, BS Thúy cho biết, do khối u phát triển lớn chèn ép vào động mạch tuyến yên và các nhánh của nó dẫn đến thiếu máu cục bộ của thuỳ trước tuyến yên và khối u.
Một giả thuyết khác cho rằng mạng lưới mạch máu tuyến yên mảnh bị đè nén bởi khối u gây thiếu máu cục bộ, hoại tử và xuất huyết. Ngoài ra cũng lý thuyết cho rằng sự phát triển nhanh chóng của khối u vượt xa nguồn cung cấp mạch máu của nó, dẫn đến thiếu máu cục bộ và hoại tử.
Cũng theo BS Thúy, các yếu tố thúc đẩy đột quỵ tuyến yên bao gồm: Tăng huyết áp, phẫu thuật lớn, đặc biệt là ghép bắc cầu động mạch vành, điều trị chống đông máu, rối loạn đông máu, mang thai và chấn thương đầu.
Dấu hiệu nhận biết đột quỵ tuyến yên
Theo các chuyên gia, đau đầu cấp tính nặng là biểu hiện thường gặp nhất, đau đầu có thể kèm buồn nôn và nôn. Cần loại trừ xuất huyết dưới nhện.
Bên cạnh đó, giảm thị lực đột ngột và mất thị trường, phổ biến nhất là bán manh vùng thái dương, là do chèn ép giao thoa thị giác; liệt dây thần kinh số 3, nhìn đôi, sụp mi, liệt liếc trong, lên và xuống và đặc biệt có thể giãn đồng tử, phản xạ ánh sáng yếu.
Ngoài ra, còn có các triệu chứng: sốt, sợ ánh sáng, cứng gáy, giảm ý thức.
Các chuyên gia khuyến cáo, khi nhận thấy người bệnh có các dấu hiệu cảnh báo đột quỵ tuyến yên, nhân viên y tế nhanh chóng thực hiện xét nghiệm khẩn cấp chức năng gan, thận, điện giải, công thức máu, chức năng đông máu.
Đánh giá hormone: Cortisol, ACTH, FT4, TSH, Prolactin, LH, FSH, Testosterone (nam giới), estradiol (nữ giới); đánh giá tại giường về thị lực; đánh giá sâu hơn về thần kinh nhãn khoa khi người bệnh ổn định về mặt lâm sàng; CT scan sọ não để loại trừ xuất huyết dưới nhện và viêm màng não.
Cùng với đó, chụp cộng hưởng từ (MRI) tuyến yên là xét nghiệm được lựa chọn và đã được chứng minh chẩn đoán xác định ở hơn 90% bệnh nhân. Trong trường hợp không thể chụp được cộng hưởng từ hoặc có chống chỉ định thì CT scan được đặt ra. Sau đó, chuyển khẩn cấp bệnh nhân đến đơn vị phẫu thuật thần kinh- nội tiết để xử trí.