Sau một ngày xét xử, chiều 28/8 TAND TP. Đà Nẵng đã tuyên án đối với vụ án “Ly hôn nuôi con, chia tài sản chung, nợ chung” giữa nguyên đơn trong vụ án là bà Nguyễn Thị H. T. (SN 1985), bị đơn là ông Lê Phước H. B. (SN 1985, cùng trú tại Đà Nẵng).
Trước đó, Bản án sơ thẩm số 23/2024/NHGĐ-ST của TAND quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng tuyên công nhận ly hôn; tuyên phần tài sản chung chia 70% cho ông B., 30% cho bà T. Cả hai đều kháng cáo một phần bản án sơ thẩm, trong đó người chồng kháng cáo đề nghị chia tỷ lệ 80% - 20%.
Tại phiên tòa xét xử phúc thẩm, bị đơn ông Lê Phước H. B. và một số người có nghĩa vụ liên quan có đơn xin xét xử vắng mặt theo quy định pháp luật.
HĐXX cấp phúc thẩm công bố nội dung đơn kháng cáo của ông Lê Phước H. B. trong đó ông B. yêu cầu cấp phúc thẩm chấp nhận phân chia tài sản chung sau khi khi cấn trừ nợ chung với tỷ lệ ông B. 80% và bà T. 20%; yêu cầu làm rõ công sức đóng góp, nguồn gốc xuất hiện tài sản chung với tổng giá trị là 44 tỷ đồng, công sức gây dựng nên các tài sản của ông B., bà T.
Trình bày tại tòa, bà Nguyễn Thị H. T. giữ nguyên nội dung kháng cáo. Bà T. yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét chấp nhận nguyện vọng được nuôi 2 con chung; lô đất đường 2-9 là tài sản chung của hai vợ chồng hoán đổi lô đất đường 30-4 cho bà D. (chị ruột ông B.) chứ không phải là tài sản riêng của ông B..
Theo đó, bà T. trình bày, trước đây vợ chồng bà có vay ngân hàng mua hai lô đất ở TP. Tam Kỳ (tỉnh Quảng Nam). Hai lô đất này sau đó được bán với giá gần 24 tỷ đồng. Trong đó, 10 tỷ đồng vợ chồng dành ra để xây dựng ngôi nhà 6 tầng trên diện tích 250m2 ở thửa đất mặt tiền đường Nguyễn Hữu Thọ.
Số tiền còn lại 14 tỷ đồng đưa cho mẹ của ông B. cất giữ. Sau đó, mẹ ông B. cùng bà D. mua lô đất đường 30-4 có diện tích 855m2 với giá 82 tỷ đồng. Bà D. góp 50% tương ứng là 41 tỷ đồng còn 41 tỷ đồng mẹ ông B. góp. Trong đó, số tiền 41 tỷ đồng của mẹ ông B. góp mua là có 14 tỷ đồng của vợ chồng ông B.
Về sau, vợ chồng bà T. đồng ý hoán đổi lô đất 30-4 sang lô đất 2-9 của bà D. và có cấn trừ thêm tiền vì lý do để tiện đầu tư kinh doanh.
Bà T. trình bày thêm, việc thủ tục sang tên thửa đất đường 2-9 cho ông B. bằng hình thức Hợp đồng cho tặng là để tránh việc phát sinh thuế trong quá trình chuyển nhượng (cụ thể chồng bà D. tặng bà D. sau đó bà D. tặng cho ông B.).
Đó là những lý do khiến bà T. không đồng tình việc cấp sơ thẩm tuyên thửa đất đường 2-9 là tài sản riêng của ông B.
Đối với 7 khoản nợ, ông B. thống nhất 5 khoản nợ, 2 khoản nợ ông B. không thừa nhận đó là của Công ty TNHH Phát triển giáo dục Kim Ngưu và của hộ kinh doanh ông Nguyễn Lương B., bà Hà Thị Hồng Th. vay các ngân hàng với số tiền tổng dư nợ hơn 9,5 tỷ đồng.
Lý giải về 2 khoản nợ này, bà T. cho biết, trước đây vợ chồng có vay ngân hàng để đi đầu tư đất, nhưng lãi suất ngân hàng tăng cao nên đã dùng pháp nhân của Công ty đi vay ngân hàng khác lãi suất thấp hơn để thanh toán các khoản nợ.
Đối với gói vay hộ kinh doanh bà T. khai dùng để chi tiêu, mua sắm như mua ô tô hiệu Camry và nhiều thứ khác. Bà T. cho biết có tin nhắn (được lập vi bằng) giữa bà và ông B. nói về nội dung các khoản vay này. Do đó, bà T. yêu cầu xem xét 2 khoản nợ này là khoản nợ chung chứ không phải riêng của bà như phán quyết của cấp sơ thẩm…
Nói về lý do ly hôn, bà T. cho biết, do có quá nhiều mâu thuẫn trong cuộc sống không thể giải quyết được. Đơn cử như ông B. đã có mối quan hệ bắt chính trong thời kỳ hôn nhân bà đã bỏ qua để các con có một gia đình hoàn chỉnh và nhất là thời điểm đó ông B. công danh sự nghiệp “đang lên” nên sợ ảnh hưởng. Tuy nhiên, càng về sau ông B. càng “quá đáng” trong cách hành xử, cho nên bà mới quyết định ly hôn.
Trong khi đó, tại bản luận cứ của LS bảo vệ quyền lợi cho ông B. mà HĐXX công bố tại tòa có nhiều nội dung cho rằng, bà T. đã vượt quá giới hạn trong thời kỳ hôn nhân (đi du lịch cùng bạn dài ngày), tự ý ly hôn.
Nói về việc nuôi con, ý kiến bên phía bị đơn cho rằng, không loại trừ việc bà T. đưa ra yêu cầu được nuôi hai con là có mục đích khác. Còn về điều kiện để nuôi con, trong trường hợp để tạo cho con môi trường phát triển tốt nhất, ông B. có thể chấp nhận nuôi cả 2 con… LS đề nghị HĐXX cấp phúc thẩm chấp nhận toàn bộ nội dung đơn kháng cáo của bị đơn.
Tranh luận đối đáp với LS bị đơn, LS phía nguyên đơn đưa ra nhiều ý kiến khẳng định việc chấp nhận đồng ý cho bà T. được quyền nuôi hai con là điều cần thiết. Hơn 12 năm hôn nhân, bà T. là người chăm sóc chính đối với cả hai con; con trai lớn mắc bệnh tự kỷ cần có người bạn đồng hành luôn bên cạnh và em trai là điều kiện tốt nhất. Đối với tài sản chung và khoản nợ chung cần xem xét để đảm bảo quyền lợi cho bà T.
Từ những tài liệu có trong hồ sơ, lời trình bày của đương sự và LS bảo vệ quyền lợi của các đương sự tại tòa... HĐXX xét thấy, tại phiên tòa phúc thẩm cả nguyên đơn và bị đơn đều không cung cấp thêm bất cứ tài liệu chứng cứ nào khác ngoài những tài liệu đã có ở phiên tòa sơ thẩm, do đó không có cơ sở để xem xét đối với những nội dung kháng cáo.
HĐXX tuyên không chấp nhận đơn kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bản án sơ thẩm số 23/2024/NHGĐ-ST ngày 17/5/2024 của TAND quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng tuyên công nhận sự thuận tình ly hôn giữa bà T. và ông B. Giao người con lớn cho bà T. nuôi và người con nhỏ do ông B. nuôi. Hai ông bà không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con cho bên nào, các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chung theo quy định của pháp luật.
Về phần phân chia tài sản chung và nợ chung, cấp sơ thẩm xác định tổng giá trị tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là 44,3 tỷ đồng. Nợ chung trong thời kỳ hôn nhân là hơn 18 tỷ đồng. Tổng giá trị tài sản chung sau khi khấu trừ nghĩa vụ trả nợ của hai vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là hơn 26 tỷ đồng.
Chia giá trị tài sản chung sau khi đã khấu nợ khoản nợ chung theo tỷ lệ bà T. được hưởng 30%, hơn 7,8 tỷ đồng và ông B. được hưởng 70%, hơn 18 tỷ đồng.