Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, hiện các khoản tín dụng xanh và trái phiếu xanh dành cho các dự án điện gió, điện mặt trời… vẫn chỉ là những khoản cho vay hoặc đầu tư thông thường với đầy đủ điều kiện về tài sản đảm bảo, lãi suất, kỳ hạn mà không có ưu tiên, ưu đãi nào.
Ngày 06/08/2024, tại Hà Nội, Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance tổ chức buổi tọa đàm "Triển vọng phát triển Tài chính xanh" và ra mắt Đặc san Toàn cảnh Đầu tư Tài chính 2024.
Tại tọa đàm, các chuyên gia cho rằng, việc thúc đẩy tài chính xanh rất quan trọng nhằm điều hướng nguồn lực tài chính vào các dự án thân thiện với môi trường. Tuy nhiên, dù bắt đầu từ sớm nhưng khung pháp lý về tài chính xanh, kinh tế xanh vẫn chưa được như kỳ vọng. Do đó, rất cần có những giải pháp cụ thể và khả thi nhằm thúc đẩy lĩnh vực này phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
'Chuyển đổi xanh là mệnh lệnh không thể chối từ'
Phát biểu tại toạ đàm, TS Võ Trí Thành khẳng định chuyển đổi xanh là xu thế tất yếu, là mệnh lệnh chính trị không thể chối từ. Phát triển xanh không chỉ là cam kết chính trị mạnh mẽ của cả quốc gia, mà là mệnh lệnh từ chính thị trường, người tiêu dùng yêu cầu xanh hơn, an toàn hơn; từ chính yêu cầu của các nước phát triển; từ tài chính, không xanh không cho vay.
"80% lượng vốn tài chính đòi hỏi ESG (Môi trường - Xã hội - Quản trị) mới cấp vốn. Mệnh lệnh này là rất cấp bách. Với doanh nghiệp, không chỉ là tồn tại hay không tồn tại, mà còn nắm bắt được nhiều cơ hội mới khi phát triển xanh", ông Thành nói.
Ông Thành nhấn mạnh tài chính xanh là cuộc cách mạng về thể chế, công nghệ với nhiều điểm mới như tiêu chí, tiêu chuẩn xanh, nguồn gốc xuất xứ xanh…
Theo ông Thành, việc đưa vấn đề "xanh" vào thị trường không phải là vấn đề đơn giản. Với vấn đề của thể chế, chuyển đổi xanh là quá trình đầy thách thức, đòi hỏi thay đổi từ tư duy, nhận thức, thay đổi thể chế, ban hành khung pháp lý, chính sách, đào tạo thay đổi trong hành động, đòi hỏi sự tham gia của cả các tổ chức, người dân và doanh nghiệp.
"Như vậy, không chỉ doanh nghiệp hay nhà nước muốn là làm được mà cần có sự nỗ lực từ cả Chính phủ và các tổ chức, người dân và doanh nghiệp. Tóm lại đây là một sự chuyển đổi từ "dưới lên" và từ "trên xuống", ông Thành nhấn mạnh.
Luật sư Nguyễn Thanh Hà cũng cho rằng dù bắt đầu từ sớm nhưng khung pháp lý về tài chính xanh, kinh tế xanh vẫn chưa được như kỳ vọng.
"Chúng ta đã bắt đầu xây dựng khuôn khổ, hành lang pháp lý từ 12 năm trước và dần hoàn thiện qua từng giai đoạn. Song, trên thực tế, những quy định điều chỉnh liên quan đến tài chính xanh, kinh tế xanh tương đối chậm. Chẳng hạn như chúng ta vẫn thiếu rất nhiều quy định về xây dựng thị trường tín chỉ carbon như chưa có quy định về quyền liên quan, chưa xác định quyền sở hữu thuộc về nhà nước hay doanh nghiệp… Việc thiếu hành lang pháp lý, thiếu quy định pháp luật ảnh hưởng rất nhiều lên quyết định của các nhà đầu tư vào thị trường này", ông nói.
Thêm vào đó, Việt Nam cũng chưa xây dựng các bộ tiêu chí xanh khác nhau cho từng ngành cụ thể như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ… "Thiếu quy định pháp lý cùng với những vướng mắc kể trên, chặng đường phát triển tài chính xanh, kinh tế xanh ở nước ta vẫn đang còn nhiều thách thức", ông Hà nhận định.
Nói về tài chính xanh rất nhiều nhưng làm rất ít
Nói về chính sách hỗ trợ cho tài chính xanh, TS. Lê Xuân Nghĩa đánh giá, chúng ta đang nói rất nhiều nhưng làm rất ít. "Thực tế, các khoản tín dụng xanh và trái phiếu xanh dành cho các dự án điện gió, điện mặt trời… vẫn chỉ là những khoản cho vay hoặc đầu tư thông thường với đầy đủ điều kiện về tài sản đảm bảo, lãi suất, kỳ hạn mà không có ưu tiên, ưu đãi nào.
Ông Nghĩa lấy ví dụ, Quỹ của Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng cho vay khắt khe như ngân hàng thương mại, chỉ có lãi suất thấp hơn. Theo đó, Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam do Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý với tổng nguồn vốn 1.800 tỷ đồng, chỉ cho vay vào các dự án xử lý rác thải với điều kiện nghiêm ngặt như những khoản tín dụng bình thường. Để vay tiền từ quỹ này, doanh nghiệp cũng cần phải có tài sản đảm bảo, tuân thủ hạn mức tín dụng, chỉ có lãi suất thấp hơn thị trường 2%.
"Theo tôi, đây chưa thể được coi là một quỹ tài chính xanh và quy mô của nó lại càng không tương xứng với nhu cầu về tài chính xanh mà Ngân hàng Thế giới ước tính là chúng ta cần tới 360 – 400 tỷ USD để chuyển đổi năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính từ nay đến 2030", ông Nghĩa phân tích.
Cũng theo TS Lê Xuân Nghĩa, tại Việt Nam, Bộ Tài chính – cơ quan ngân sách của nhà nước, cần có sự quan tâm đúng mức. "Tiền dành cho tài chính xanh phải từ ngân sách đi ra", ông Nghĩa nhấn mạnh.
Chia sẻ góc nhìn cá nhân về việc đầu tư xanh và tài chính xanh, ông Tô Trần Hoà - Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) cho biết, đây là một câu chuyện 2 chiều, nếu như cơ quan quản lý cần tạo điều kiện cho doanh nghiệp làm "xanh", thì từ góc độ doanh nghiệp cũng cần sự chủ động, cần nghiên cứu và có phương án đầu tư xanh hiệu quả chứ không thể làm một cách bất chấp, vì tiêu chí đầu tư đầu tiên là phải có "lãi".
Về việc TS. Lê Xuân Nghĩa nhận định tiêu chí ủng hộ đầu tư xanh nên thuộc về nhà nước và được ngân sách nhà nước ủng hộ, ông Tô Trần Hoà cho rằng nếu sử dụng ngân sách để bảo lãnh đầu tư xanh và dự án xanh, đây sẽ là sức ép tương đối lớn lên ngân sách.
"Ngân sách chúng ta đang bội thu, nhưng có nhiều dự án lớn khác cần dùng ngân sách, như đường cao tốc Bắc-Nam hay đường sắt Bắc-Nam sắp tới. Vậy nên khi đầu tư, dù xanh hay không xanh, tự doanh nghiệp cần có sự chủ động và cân đối", ông Hoà nói.
Tín dụng xanh còn rất nhiều dư địa phát triển
Tại toạ đàm, ông Nguyễn Tùng Anh - Trưởng phòng Nghiên cứu Tín dụng và Dịch vụ Tài chính xanh thuộc FiinRatings, cho biết dù ghi nhận tốc độ tăng trưởng vượt bậc so với tăng trưởng tín dụng chung, nhưng tín dụng xanh mới chiếm 4,32% tổng dư nợ của toàn nền kinh tế, cho thấy còn nhiều dư địa phát triển. Mặc dù vậy, thị trường trái phiếu xanh chứng kiến sụt giảm đáng kể cả về số lượng và giá trị phát hành trong năm 2022.
Để khai mở thị trường tài chính xanh ở trong nước, ông Tùng cho rằng cần yếu tố quan trọng nhất là nhận thức của nhà đầu tư và chấp nhập vấn đề ngoại ứng. "Để thị trường trái phiếu xanh và tín dụng xanh phát triển mạnh mẽ và bền vững, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng để thực hiện các quy định trên một cách hiệu quả và nhất quán", ông Tùng Anh nói.
Ngoài ra, ông Tùng Anh cũng cho rằng cần phải nâng cao năng lực và kiến thức của các nhà hoạch định chính sách và các bên liên quan về các sản phẩm tài chính xanh, đồng thời tạo ra một môi trường đủ thuận lợi cho các chủ thể phát hành và nhà đầu tư để đầu tư và phát triển các dự án tài chính xanh.
Việc đưa ra các tiêu chí và quy định cụ thể về thị trường tài chính xanh là một bước đi đúng hướng, tuy nhiên cần có các cơ chế kiểm soát và giám sát để đảm bảo tính minh bạch và độ tin cậy của thị trường. Nếu được thực hiện đúng cách, thị trường trái phiếu xanh và tín dụng xanh sẽ không chỉ đóng góp vào việc bảo vệ môi trường mà còn tạo ra các cơ hội đầu tư và phát triển kinh tế bền vững cho đất nước.
Dưới góc độ doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này, đại điện PAN Group là ông Nguyễn Anh Tuấn chia sẻ kinh nghiệm của doanh nghiệp này trong tiếp cận nguồn vốn xanh với kỳ vọng mang lại một số ý tưởng hay cho cơ quan quản lý cũng như các doanh nghiệp.
Theo ông Tuấn, PAN Group hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp-thuỷ sản, với các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu sang châu Âu và Mỹ, do đó ngay từ đầu, ban quản trị doanh nghiệp đã đặt nền móng hàng đầu là phát triển bền vững.
Ông Tuấn cũng chia sẻ, trong quá trình huy động nguồn vốn xanh cho tập đoàn, PAN Group đã tiếp cận rất nhiều định chế tài chính quốc tế và nhận thấy có sản phẩm phù hợp là sản phẩm tài chính bền vững.
Tại Việt Nam đang có 2 sản phẩm theo định chế này, bao gồm sản phẩm tài chính xanh dành cho các doanh nghiệp có dự án xanh lớn và dễ được các tổ chức quốc tế tài trợ, một sản phẩm khác sẽ yêu cầu các doanh nghiệp cam kết giảm phát thải theo các tiêu chí ESG. Theo ông Tuấn, PAN Group hiện đang theo cả 2 sản phẩm này.
Cũng theo ông Tuấn, thông qua điều này, có thể thấy, các định chế tài chính nước ngoài có nguồn vốn và nguồn lực để tài trợ cho tài chính xanh chứ không phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn vốn nhà nước. Việc có các định chế riêng và nguồn lực riêng sẽ tạo nguồn vốn dễ dàng hơn cho doanh nghiệp Việt nếu muốn tiếp cận.
Với kinh nghiệm huy động nguồn vốn xanh, ông Tuấn cho rằng có 2 yếu tố cần chú ý.
Thứ nhất là nguồn vốn chủ động, tức nếu doanh nghiệp phù hợp thì nguồn vốn sẽ tự chảy đến.
Thứ hai, nếu muốn tiếp cận các định chế tài chính, bản thân doanh nghiệp phải có nền tảng nhất định về phát triển bền vững cũng như quản trị bền vững, điều mà đại diện PAN Group cho rằng “doanh nghiệp Việt Nam đôi khi chưa có sẵn”.